Nhà thơ Lê Đại Thanh - “Chất chứa nỗi nhớ Hải Phòng”
(HPĐT)- Quê gốc Thanh Hóa, nhưng sinh ra ở Hải Phòng và phần lớn cuộc đời gắn bó với Hải Phòng, như vậy nhà thơ Lê Đại Thanh (1907-1996) là một trong những hình ảnh tiêu biểu một thời của đất và người Hải Phòng, cả phương diện chính trị xã hội và nghệ thuật. Nhìn vào hành trình cuộc đời ông như thấy con đường dài rộng của Hải Phòng và đất nước dọc thế kỷ 20 bộn bề sự kiện.
Nhà thơ Lê Đại Thanh từng nói như thế này về thành phố nơi ông sinh ra:“Mẹ tôi đẻ tôi sau những năm Nga- Nhật chiến tranh (1907) trên bờ sông Đào, Hải Phòng. Thế giới của tôi là cái thành phố công nhân mới tạo lập đầy đầm ao, đầy những tiếng ếch, tiếng ễnh ương, tiếng hát của Tây say, của đám lính thủy Pháp… Tôi yêu tha thiết cái thế giới nhỏ bé của tôi, cái trường học do ông Thông Vôi lập ra ở phố Cầu Đất”.
Sau khi học xong tiểu học tại Trường Collège de Haiphong (Cao đẳng tiểu học Hải Phòng, thường gọi là Trường Bonnal, nay là Trường THPT Ngô Quyền), năm 1922, ông lên Hà Nội theo học tại Collège du Protectorat (Trung học Bảo hộ, thường gọi Trường Bưởi, nay là THPT Chu Văn An). Môi trường báo chí và văn chương đất kinh kỳ đưa ông đến với thơ ca, nghệ thuật. Khi kịch nói phương Tây du nhập vào nước ta, thu hút người cầm bút và cư dân thành thị, nhà thơ Lê Đại Thanh cũng là một trong những người đầu tiên có mặt trên tiến trình kịch nói Việt Nam. Sau này, khi ra dạy học, ông đồng thời viết báo, làm thơ, làm diễn viên trong Ban kịch Thế Lữ ở Hải Phòng; sau đó viết kịch rồi cùng nhà thơ Lan Sơn lập ban kịch mang tên hai người và Ban kịch Gió Biển của riêng mình. Bà Đinh Ngọc Anh, vợ ông là con gái nhà tư sản Vạn An Trường ở Hải Phòng chính là diễn viên Ban kịch Gió Biển. Năm 1937 là năm rực rỡ của văn chương Hải Phòng với hai giải thưởng báo Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn, đó là tiểu thuyết “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng và vở kịch “Kim tiền” của Vi Huyền Đắc; hài kịch “Hai người trọ học” của Lê Đại Thanh cũng được ban giám khảo khen ngợi.
Cách mạng Tháng Tám 1945 bùng nổ, Lê Đại Thanh tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Hải Phòng. Cách mạng thành công, ông được cử làm Phó Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời phụ trách tuyên truyền, nhưng ông chỉ nhận làm Ủy viên tuyên truyền phù hợp với khả năng của mình. Dù ngày đêm cùng chính quyền cách mạng lo chống thù trong giặc ngoài, song hào khí Cách mạng Tháng Tám và niềm vui nước nhà độc lập vẫn khơi niềm cảm hứng cho Lê Đại Thanh viết vở kịch thơ "Chiến thắng Đông Đô” và bài thơ “Chương Dương hành khúc”.
Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ vào năm 1946, ông tham gia Trung đoàn 42 bảo vệ Hải Phòng. Tháng 7-1948 Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức Đại hội thành lập với hơn 80 đại biểu, ông trong Ban Thư ký. Khi này ông công tác tại Hội Văn hóa cứu quốc rồi tạp chí Gió biển, báo Quân Bạch Đằng thuộc Bộ Tư lệnh Liên khu 3. Ông viết hai vở kịch nói “Những cái chết anh hùng” và “Người mẹ tiễn con ra trận”. Năm 1954 hòa bình lập lại, nhà thơ Lê Đại Thanh công tác tại báo Văn nghệ và Đoàn kịch Trung ương, sau đó về ở hẳn Hải Phòng, cũng từ đây sống khá lặng lẽ. Có người vin vào tên bài thơ “Di chúc” ông viết năm 1965, bảo ông chưa 60 tuổi đã có ý định tìm đến cái chết. Tuy nhiên, phải đọc bài thơ mới thấy ở đó chứa chan nghị lực và lòng tin: “Người làm thơ coi cái chết bình thường/ Vì cuộc sống là một hành trình có hạn/ Tôi bước vào đời đã ngả theo Cách mạng/ Như hoa hướng dương quay theo ánh mặt trời/ Đảng là đại dương, tôi là con cá hồng bơi/ Đảng là núi, tôi là con chim ngực đỏ…”.
Về sự nghiệp sáng tác, không kể kịch, cả đời thơ Lê Đại Thanh chỉ gọn trong tập “Những ngôi sao biển” với mấy chục bài xuất bản khi ông vào tuổi 80 (năm 1987). Viết nhiều không là điều quan trọng với ông. Ở ông mỗi bài thơ, mỗi câu thơ là sự chắt lọc những tinh túy nhất của tâm hồn, tâm hồn ấy bám rễ vào cội nguồn đất nước và dân tộc nên sâu nặng, chan chứa và đằm thắm, như chính ông nói trong bài thơ “Tôi yêu chuyện cổ tích nước tôi”: “Tôi khổ như chàng trai tương tư/ Tìm em hò hẹn tự bao giờ/ Em là cô gái đi hài đỏ/ Rắc bướm hoa vào những giấc mơ.”
Anh em văn nghệ Hải Phòng đương thời kính trọng và thân mật gọi nhà thơ Lê Đại Thanh là “bố”. Sáng nào cũng thấy “bố” thả bộ từ nhà ở phố Cầu Đất, sang Quán Hoa rồi phố Hoàng Văn Thụ, cũng có khi theo phố Trần Phú hoặc phố Trần Hưng Đạo, cứ dọc dải vườn hoa trung tâm đi mãi; mũ phớt, mục kỉnh, giầy tây, cà vạt, lãng đãng như không biết có ai, không để ý đến những gì, như thể tìm lại dấu chân mình một thuở. Nhà thơ Vân Long có lý khi viết: “Tôi ngồi uống cà phê cạnh Nhà hát Lớn, nhìn chéo qua dãy quán bán hoa, cảnh sắc đặc biệt của thành phố này. Nhưng vẫn thấy thiêu thiếu một cái gì. Chỉ khi bác Lê Đại Thanh xuất hiện, đội mũ phớt, dáng đi như kẻ mộng du, cái nhìn lướt trên đầu mọi người. Ồ! Bây giờ mới thật Hải Phòng!”. Nhà thơ Lê Đại Thanh là vậy – hình ảnh một thời của đất và người Hải Phòng. Con người ta nếu ví như mỏ vàng mỏ bạc thì nhà thơ Lê Đại Thanh là mỏ giàu hàm lượng, chất chứa và cô đọng những gì thuộc về Hải Phòng và một phần của đất nước gần trọn 100 năm thế kỷ 20 với biết bao sự kiện.