Tư tưởng thân dân trong 2 câu thơ ở đền Trạng Trình
Đến thăm đền thờ danh nhân văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta sẽ đọc được hai câu tạc chìm trên hai bức phù điêu “Cổ lai quốc dĩ dân vi bản/ Đắc quốc ưng tri tại đắc dân”. Đây có phải là hai câu đối, hay hai câu thơ và thông điệp của nó muốn truyền tải đến người đọc là gì?

Hai câu thơ trong bài thơ chữ Hán “ Cảm hứng”
Tại quảng trường trung tâm khu Đền sau bức tượng đài Trạng Trình có hai tấm phù điêu khá lớn. Ở phần cuối bức số 1 và đầu bức số 2 tạo hai cột lớn trên đó, mỗi cột khắc một vế câu theo lối chữ chạy dọc “Cổ lai quốc dĩ dân vi bản” và “Đắc quốc ưng tri tại đắc dân”. Cách thiết kế này tạo ra cảm nhận như 2 câu đối. Hầu như khách thập phương không ai biết đó là hai câu thơ; ngay cả nhiều nhà báo đến đây ở thời điểm năm 2023, viết tin đăng bài và một số đơn vị lữ hành sử dụng quảng cáo du lịch… vẫn đều ghi rất tự nhiên: “Dưới bức đại tự là đôi câu đối thể hiện quan điểm, nhận thức rằng: dân là gốc của nước đồng thời tỏ rõ tấm lòng yêu nước, thương dân của ông…”. Thậm chí còn hiểu sai toàn bộ vì cho rằng đó không phải là câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả này viết: “Chẳng thế mà người đời ngợi ca tư tưởng nhân văn sâu sắc của quan trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bản/ Đắc quốc ưng tri tại đắc dân”. Còn có hiện tượng bi hài khác là, trong số các du khách có chút ít về Hán học hoặc mới tập làm câu đối, đến đây lại tỏ vẻ nghi ngờ về sự thiếu cẩn trọng của người làm đã “chép” sai câu của Cụ Trạng; vì một Trạng Nguyên lừng lẫy cả “rừng Nho học” quyết không làm vế đối sai luật, vừa thất vận vừa lặp từ như vậy?
Sự thật, đó không phải là hai câu đối mà là cặp câu kết trong bài thơ chữ Hán có tên “ Cảm hứng” trong tập “ Bạch Vân am thi tập” của cụ Trạng Trình.
Câu chuyện giản đơn và sáng rõ là vậy mà bao năm nay vẫn cứ nhầm lẫn. Mặt khác hai câu thơ tuyệt vời với “tư tưởng thân dân” sáng rõ như nhật nguyệt đặt tại trung tâm quảng trường mà phần đông người dân đến đọc và lơ mơ về ý nghĩa của nó thật là điều rất cần khắc phục.
“Tư tưởng thân dân” của Trạng Trình
Có thể nói tư tưởng thân dân hay sách lược trị quốc làm cho đất nước hưng thịnh thể hiện ngay ở tầng ý nổi của hai câu thơ này. Một quan điểm rất tường minh: “Xưa nay nước lấy dân làm gốc / Được nước là nhờ có được dân”. Dân là gốc của nước đã trở thành tư tưởng chính trị định hướng, quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của dân tộc xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam và đã được lịch sử dân tộc kiểm chứng. Tư tưởng chính trị này được nhiều nhà yêu nước cùng các vương triều phong kiến coi trọng và vận dụng thành công trong công cuộc củng cố quyền lực, tập hợp sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Việc coi dân làm gốc nước ở Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện ở nhiều bình diện: tố cáo để bênh vực dân, khuyên vua phải vì dân, sẻ chia sự đau buồn, hòa chung niềm vui cùng dân chúng… Trong một bài “Cảm hứng” khác, từ khái quát lịch sử, ông khuyên nhà cầm quyền không được tham lam mà mất lòng dân:“Quân vương như hữu quang minh chúc/Ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân” (Nếu như vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo). Lo đời, thương đời ông đã phê phán giai cấp quý tộc phong kiến thối nát, gây ra cảnh chết chóc vô nghĩa cho dân đen: “Ngán xem nghịch tặc rông rỡ đã lâu, Đánh lẫn nhau chết một nửa” - (Cảm hứng thi). Trong bài “Tăng thử”, ông ví bọn cầm quyền như loài chuột “vét sạch tài sản của dân, gây ra cảnh tượng thê thảm khắp nơi”…
Với Nhân dân, sự quan tâm của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải bằng lời lẽ khéo léo, sáo rỗng, mà vì ông cảm được nỗi thống khổ của quần chúng nhân dân. Trước nỗi đau thương, tang tóc của dân do những cuộc nội chiến gây ra, ông mong mỏi thái bình cho đất nước, an lạc cho dân lành: “Giáo và mộc tua tủa bày ra đầy trước mặt, Nhân dân chạy trốn muốn tìm nơi an lạc, Khốn đốn dắt dìu nhau, thơ than không có đất, Thương xót che chở cho, may thay còn có trời” - (Cảm hứng thi). Trạng Trình dành gần cả cuộc đời sống gần dân và sẻ chia mọi nỗi vui buồn với họ. Ông thấy “dân không được mùa thì khó lòng yên giấc”- (Ngụ hứng). Ông lo lắng trước cảnh hạn hán mất mùa kéo dài, ông vui mừng khôn xiết khi gặp cơn mưa thuận thời tiết: “Mừng thấy ngày nay thuận thời mưa nắng, Điềm tốt thứ nhất biết chắc được mùa” - ( Hạ nhật vũ tình)…
Sơ lược vài ý nhỏ vậy để thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn đau đáu một nỗi vì dân, đứng về phía Nhân dân, về “phe nước mắt”. Riêng hai câu thơ chữ Hán trong vấn đề đang bàn ở đây, phản ánh mục đích tối thượng trong tư tưởng trị nước của Nguyễn Bỉnh Khiêm là xây dựng một đất nước thống nhất, hòa bình, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Điều quan trọng là chính quan điểm coi dân làm gốc nước của ông không xuất phát từ thái độ của bề trên đối với kẻ dưới, không dừng lại ở xót thương, mà xuất phát từ nhận thức sâu sắc của ông về sự thật này, trong dòng chảy lịch sử quá khứ và thời đại ông sống. Ông đã bảo vệ lợi ích của Nhân dân một cách đặc biệt, đó là: không cần gắn quyền lợi của nhân dân với quyền lợi của nhà vua mà ngược lại ông cho là phải gắn quyền lợi của nhà vua với quyền lợi của nhân dân, phải lấy hạnh phúc của Nhân dân làm cơ sở cho sự hưng thịnh của vương triều và đất nước. Chính điều đó đã nâng ông lên tầm cao của thời đại và mãi mãi được lịch sử tôn kính.
Chúng tôi với lòng ngưỡng vọng tiền nhân và yêu mến văn hóa quê hương có một số lời bàn như vậy, với mong muốn được các nhà quản lý văn hóa thành phố và địa phương có giải pháp khắc phục hạn chế này ở một địa điểm mà từ năm 2015, đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích Quốc gia đặc biệt./.