Tham gia ý kiến dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản

05:15 CH 14/11/2024

Sau khi nghiên cứu dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, tiếp thu ý kiến của cử tri để góp phần hoàn thiện dự thảo Luật, tôi xin tham gia một số ý kiến như sau:

 

1) Tại Điều 2. Giải thích từ ngữ, đề nghị phân biệt rõ sự tương đồng và khác biệt của cụm từ “khối lượng khoáng sản” và “phần tài nguyên khoáng sản” trong giải thích từ “công suất khai thác” và “trữ lượng khoáng sản” tại khoản 27 và khoản 29. Đồng thời bổ sung giải thích từ ngữ để phân biệt “cát, sỏi lòng sông” ở khoản 1 và “cát biển” ở khoản 2 Điều 90 cho rõ ràng hơn.

2) Tại Điều 6. Phân nhóm khoáng sản, đề nghị quy định cụ thể tiêu chí phân biệt khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và khoáng sản thuộc nhóm IV; làm rõ bùn sét thu được trong quá trình nạo vét luồng, đất, đá thu được trong quá trình đào, thi công xây dựng các công trình nhà ở, chung cư ở khu vực thành thị, nông thôn có được coi là khoáng sản không, được xếp vào nhóm nào, cơ sở pháp lý nào để xác định đây là khoáng sản và xếp nhóm. Thực tế hoạt động ở các nhóm này có sự đan xen lẫn nhau. Ví dụ:

+ Đất đá thải, bùn thải sau khi sàng tuyển từ các mỏ quặng sắt ở nhóm 1 Khoáng sản kim loại bắt buộc phải có để sử dụng làm phụ gia phục vụ sản xuất xi măng lại là Khoáng sản nhóm 2.

+ Đá cát kết ở trong “Đất đồi đất lẫn đá” là khoáng sản ở nhóm 4 rất cần thiết để làm phụ gia phục vụ sản xuất xi măng là Khoáng sản nhóm 2 để điều chỉnh hàm lượng SiO2.

Do vậy, đề  nghị cần có quy định thêm ở điều này về sự đan xen giữa các nhóm khoáng sản.

3) Tại Điều 8 dự thảo Luật có tên là “Quyền lợi, trách nhiệm của địa phương, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân nơi có tài nguyên địa chất, khoáng sản được khai thác”, nhưng các nội dung tại khoản 1 và 2 của Điều này chỉ đề cập đến quyền và trách nhiệm của các đối tượng trên đối với hoạt động điều tra cơ bản về địa chất và khai thác khoáng sản, chưa có khoản nào quy định về quyền và trách nhiệm đối với hoạt động khai thác tài nguyên địa chất khác ngoài khoáng sản.

4) Tại khoản 2 Điều 12. Quy hoạch khoáng sản, phương án quản lý về địa chất, khoáng sản: tên phương án quản lý về địa chất và khoáng sản được tích hợp vào quy hoạch tỉnh là chưa phù hợp so với phương án nêu trong Luật Quy hoạch. Cơ quan chủ trì lập hiện là Sở Kế hoạch và Đầu tư. Trong phương án thì các nội dung sau UBND cấp tỉnh không có cơ sở để xác định: điều tra cơ bản địa chất, điều tra địa chất về khoáng sản nhóm III, nhóm IV; khu vực đăng ký khai thác khoáng sản nhóm IV do không biết được các dự án đầu tư xây dựng công trình cụ thể sẽ triển khai trong tương lai và căn cứ vào đâu để quy hoạch khu vực đăng ký khai thác khi không thực hiện thăm dò khoáng sản.

5) Tại Điều 28. Khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản:

+ Điểm a Khoản 1, đề nghị cần quy định cụ thể hơn đối với nội dung kết quả điều tra địa chất.

+ Điểm b Khoản 1 đề nghị chỉnh lý theo hướng: Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng các cấp, di tích đã được phê duyệt trong danh mục kiểm kê hoặc được khoanh vùng bảo vệ của cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.

+ Khoản 4: đề nghị làm rõ việc báo cáo Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh áp dụng chỉ riêng cho dự án đầu tư khai thác khoáng sản hay cả dự án không phải dự án đầu tư khai thác khoáng sản nhưng thực hiện đăng ký khai thác khoáng sản; bổ sung quy định trong trường hợp khu vực công bố cấm, tạm cấm khoáng sản vào khu vực đang có dự án triển khai thì việc bồi thường thiệt hại được quy định theo pháp luật nào để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân; làm rõ cụm từ thăm dò, khai thác khoáng sản ở khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản, khu vực dự trữ quốc gia có bao hàm việc thực hiện các dự án đầu tư xây dựng công trình có liên quan đến thu hồi khoáng sản hay không.

6) Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 53 của dự thảo Luật quy định thẩm quyền công nhận kết quả thăm dò khoáng sản ở 2 cấp, theo đó: 1. Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia công nhận kết quả thăm dò khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường. 2. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công nhận kết quả thăm dò khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của mình. Tuy nhiên tại khoản 3 lại chỉ quy định “Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia; quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng và các thành viên Hội đồng”. Như vậy chưa rõ cơ quan nào quy định cách thức, quy trình để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công nhận kết quả thăm dò khoáng sản trong thẩm quyền cấp phép của mình. Cách diễn đạt ở khoản 3 Điều 53 cũng chưa thống nhất với các khoản 2 và khoản 5 Điều 52 trong cùng dự thảo Luật.

7) Tại khoản 2 Điều 63. Thiết kế cơ sở của dự án đầu tư khai thác khoáng sản, thiết kế mỏ, đề nghị bổ sung sau khi hoàn thành xây dựng cơ bản mỏ phải được cơ quan chuyên ngành về xây dựng nghiệm thu trước khi đi vào hoạt động khai thác. Bổ sung quy định đối với khoáng sản cát về thiết kế mỏ do loại hình này có nhiều biến động hàng năm, việc thực hiện tuân thủ theo thiết kế mỏ là khó khả thi.

8) Tại Điều 66. Thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản, đề nghị có quy định riêng đối với khoáng sản cát do loại hình này nhiều biến động về trữ lượng phụ thuộc điều kiện dòng chảy, không thể qua đo đạc từ bình đồ mặt cắt và trạm cân hay camera giám sát; bỏ việc quy định về thông tin, số liệu từ kết quả phân tích, đánh giá chất lượng hoặc hàm lượng khoáng sản (do không có quy định hướng dẫn tại văn bản cụ thể, thực tế doanh nghiệp khó thực hiện).

9) Tại Điều 84. Đề án đóng cửa mỏ khoáng sản, phương án đóng cửa mỏ khoáng sản: đề nghị cân nhắc việc đóng cửa mỏ khoáng sản đối với nước khoáng, nước nóng thiên nhiên, khoáng sản ở lòng sông, lòng hồ, khu vực biển để tránh hình thức, không phù hợp với thực tế, gây lãng phí và phát sinh thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp; đề nghị bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 84 quy định với đối tượng trả lại Giấy phép khai thác khoáng sản nhưng chưa tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản hoặc các trường hợp khác có tình trạng lưỡng tính có thể xảy ra trong thực tế.

Đối với khoản 3 Điều 84, trường hợp chỉ thực hiện thủ tục cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường thì đề nghị quy định cơ quan quản lý nhà nước về môi trường hướng dẫn, thẩm định, nghiệm thu khối lượng theo quy định của pháp luật về môi trường.

10) Tại khoản 6 Điều 90. Nguyên tắc cấp giấy phép thăm dò, khai thác, thu hồi cát, sỏi lòng sông, lòng hồ và khu vực biển: đề nghị xem xét quy định cụ thể về thời gian khai thác trong ngày và thời gian khai thác trong năm đối với cát biển cho phù hợp thực tế điều kiện khai thác phụ thuộc nhiều vào thời tiết, dòng chảy, doanh nghiệp có cơ sở để chấp hành, tránh hành vi vi phạm pháp luật.

11) Tại Điều 91. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác cát, sỏi lòng sông, lòng hồ, khu vực biển: điểm a khoản 2 cần làm rõ đối với doanh nghiệp vận chuyển cung cấp cát tại chân công trình, không có bến bãi, vị trí tập kết thì sao? Đề nghị bỏ điểm d khoản 2 do không thể thực hiện được đối với khu vực khai thác ngoài biển.

12) Tại Điều 101. Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản: đề nghị bổ sung quy định đối với các dự án liên quan đến an ninh quốc phòng hoặc các dự án sử dụng nguồn ngân sách nhà nước.

13) Tại khoản 3 Điều 105 quy định nội dung về các trường hợp tổ chức, cá nhân trúng đấu giá nhận lại tiền đặt cọc. Tuy nhiên Điều 39 Luật Đấu giá tài sản năm 2016, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 24, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản năm 2024, có hiệu lực từ 01/01/2025 quy định: Trường hợp trúng đấu giá thì khoản tiền đặt trước và tiền lãi (nếu có) được chuyển thành tiền đặt cọc để bảo đảm thực hiện giao kết hoặc thực hiện hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc thực hiện nghĩa vụ mua tài sản đấu giá sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Tổ chức hành nghề đấu giá tài sản có trách nhiệm chuyển tiền đặt cọc cho người có tài sản đấu giá trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, “Việc xử lý tiền đặt cọc được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Như vậy theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản thì người tham gia đấu giá nộp tiền đặt trước và khi trúng đấu giá thì tiền đặt trước chuyển thành tiền đặt cọc để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mua tài sản đấu giá sau khi cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Sau khi người trúng đấu giá thanh toán tiền trúng đấu giá (số tiền thanh toán đã được trừ đi phần tiền đặt cọc) và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả trúng đấu giá quyền khai thác khoáng sản thì vấn đề về hoàn trả tiền đặt trước cho người trúng đấu giá không được đặt ra. Mặt khác, Luật Đấu giá tài sản đã quy định cụ thể về việc xử lý tiền đặt trước. Do đó, đề nghị xem xét chỉnh lý cho phù hợp với quy định về đấu giá tài sản và quy định của Bộ Luật dân sự.

14) Tại Điều 108. Phương pháp xác định, phương thức thu, nộp, quản lý tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ở khu vực trúng đấu giá: đề nghị bổ sung một số nội dung về đấu giá quyền khai thác khoáng sản cho cụ thể, đảm bảo thuận tiện trong việc áp dụng quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản trên thực tế, cụ thể:

+ Bổ sung vào khoản 5 giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung, trình tự, thủ tục đấu giá quyền khai thác khoáng sản, thẩm quyền ban hành quyết định về phê duyệt phương án đấu giá quyền khai thác khoáng sản, thẩm quyền công nhận kết quả đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Đây là nội dung quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn, vướng mắc hiện nay trong đấu giá quyền khai thác khoáng sản ở các địa phương.

 + Bổ sung quy định về thanh toán tiền trúng đấu giá quyền khai thác khoáng sản và quy định xử lý trường hợp người trúng đấu giá không nộp đúng hạn hoặc nộp không đủ tiền trúng đấu giá, thẩm quyền bãi bỏ Quyết định công nhận kết quả trúng đấu giá quyền khai thác khoáng sản trong trường hợp này (tương tự như đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp Nhà nước giao đất, cho thuê đất) để có cơ sở áp dụng trên thực tế, tránh trường hợp doanh nghiệp trúng đấu giá không nộp tiền trúng đấu giá nhưng không có căn cứ để hủy bỏ kết quả đấu giá để đấu giá lại./.

                                                              

BÌNH LUẬN (0)
Bạn cần đăng nhập để gửi bình luận Đăng nhập