Cần cơ chế, chính sách đặc thù để Hải Phòng bứt phá

10:19 SA 13/11/2021

 

 

Việc ban hành cơ chế, chính sách đặc thù tạo điều kiện để Hải Phòng bứt phá mạnh mẽ, trở thành động lực phát triển của cả nước.

Trong ảnh: Nhà thầu đang đẩy nhanh tiến độ thi công cầu Rào. 

 

(HPĐT)- Để giúp Hải Phòng phát triển đúng tầm, Đảng và Nhà nước ban hành một số nghị quyết riêng cho Hải Phòng từ năm 2003, gần đây là Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24-1-2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, Nghị quyết xác định mục tiêu “Xây dựng và phát triển Hải Phòng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; động lực phát triển của vùng Bắc bộ và cả nước...; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao ngang tầm với các thành phố tiêu biểu ở châu Á;...”. Đồng thời yêu cầu thành phố “Tập trung nghiên cứu, đánh giá, phân tích các cơ chế, chính sách, kinh nghiệm, cách làm hay ở trong nước và quốc tế, đặc biệt là các cơ chế, chính sách đang được áp dụng tại các khu thương mại tự do thành công trên thế giới để có thể vận dụng phù hợp với điều kiện của thành phố Hải Phòng”.

 

Tuy nhiên, với những bước phát triển mạnh mẽ, trong bối cảnh mới của quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế, Hải Phòng vẫn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, nhất là những rào cản về “độ mở” của cơ chế, chính sách khiến thành phố chưa thể phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có. Vì thế, để Hải Phòng thực sự “bứt phá”, trở thành một hình mẫu phát triển không phải chỉ cho riêng thành phố, mà còn góp phần “hiện thực hóa” khát vọng về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, xanh và bền vững vào năm 2045 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội 13 của Đảng, Nhà nước cần trao cho thành phố những cơ chế, chính sách đặc thù, mang tính “vượt trội”. Có thể nói, đẳng cấp cao của thể chế, mức độ mở của cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ tạo cơ hội để Hải Phòng thu hút các nguồn lực đủ lớn từ bên ngoài và tăng nội lực để giải phóng các tiềm năng hiện có. Nghĩa là thành phố xin cơ chế, chính sách đặc thù, khác với một số quy định của pháp luật hiện hành, nhưng không trái luật, không ỷ lại vào việc xin thêm tiền từ Trung ương và bảo đảm tiếp tục thực hiện tốt nghĩa vụ đóng góp ngân sách quốc gia. Nếu Trung ương giúp Hải Phòng tháo gỡ các rào cản, chắc chắn thành phố sẽ không chỉ duy trì được vị thế của “cực phát triển” thông thường, mà cao hơn sẽ tạo “động lực phát triển” đối với cả miền Bắc, trực tiếp là các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đồng thời cũng tác động mạnh tới các liên kết “xuyên biên giới” giữa Việt Nam với vùng Nam- Tây Nam Trung Quốc và Đông Bắc Lào, cũng như sẽ là “cực đối trọng” trong và tạo ảnh hưởng lớn đối với không gian kinh tế biển vịnh Bắc bộ - khu vực, dự báo, sẽ phát triển năng động trong thế kỷ 21.

 

Quán triệt chủ trương và từ thực tiễn của Hải Phòng như nói trên, thành phố chuẩn bị và trình Chính phủ xem xét và đưa ra thảo luận tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 15 về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội: “Thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hải Phòng”. Nghị quyết lần này của Quốc hội sẽ là bước cụ thể hóa, thể chế hóa tinh thần của các nghị quyết của Đảng và Nhà nước, là giải pháp để xử lý các “điểm nghẽn” trong thực tế phát triển của Hải Phòng. Kết quả thí điểm sẽ cung cấp những bài học thực tế quan trọng, được đánh giá hằng năm trước khi hoàn thiện và nhân rộng đại trà trên phạm vi cả nước. Nghị quyết này được thông qua, chắc chắn, sẽ tạo tác động mới đối với sự phát triển của thành phố Hải Phòng, giúp tránh được “tụt hậu phát triển” so với các nước láng giềng và là bước đệm quan trọng xây dựng Hải Phòng trong tương lai thành “Khu thương mại tự do” - một trong những “công cụ” cạnh tranh chiến lược mạnh nhất hiện nay.

 

Trên thế giới hiện có hơn 5.000 và 5 năm tới sẽ tăng thêm 1.000 khu thương mại tự do, nhưng mô hình này chưa có ở Việt Nam, kể cả trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Song, về nguyên tắc, việc thiết lập khu kinh tế tự do này là công cụ chính sách thu hút đầu tư, thúc đẩy và tạo thuận lợi cho thương mại và dịch vụ. Riêng Trung Quốc hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển khu thương mại tự do đạt “đẳng cấp” quốc tế. Trong số 18 khu thương mại tự do hiện nay ở Trung Quốc, có 6 khu mới thành lập tại các địa phương ven biển, và hiện đang xây dựng thương cảng tự do tại đảo Hải Nam, có quy mô tiếp nhận hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ hiện đại và được áp dụng thể chế đạt đẳng cấp quốc tế cao nhất.

 

Tại Phiên họp lần thứ 4 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 15 vừa qua, Chính phủ đề xuất thí điểm thành lập “Khu thương mại tự do Hải Phòng”, nhưng có những ý kiến đề nghị cân nhắc thận trọng, bảo đảm các điều kiện “cần và đủ” khi triển khai áp dụng mô hình phát triển mới. Cho nên, trước mắt, Quốc hội thảo luận 4 nhóm cơ chế đặc thù cho Hải Phòng, phù hợp thực tế, có tính khả thi trong quá trình thí điểm, có thể là 3 hoặc 5 năm. Cần khẳng định rằng, việc áp dụng một số cơ chế, chính sách thí điểm phát triển thành phố Hải Phòng rất cần thiết và cần được triển khai sớm. Xuất phát từ thực tiễn phát triển, dự thảo nghị quyết đề cập đến bốn nhóm cơ chế đặc thù, gồm: Phân cấp về “quản lý đất đai” để thành phố được quyết định việc chuyển đổi mục đích đất trồng lúa 2 vụ trở lên với quy mô dưới 500 ha; phân cấp trong quản lý quy hoạch để thành phố được phê duyệt điều chỉnh cục bộ quy hoạch, kịp thời khai thác hợp lý không gian lãnh thổ, đáp ứng nhu cầu phát triển một đô thị hiện đại, an sinh, an toàn và an ninh; thí điểm quản lý tài chính - ngân sách nhà nước trên nguyên tắc không vượt quá quy định về nghĩa vụ đóng góp của thành phố cho ngân sách Trung ương; thí điểm thực hiện cơ chế tạo nguồn thu nhập để cải cách tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức theo quy định.

 

Chắc chắn, khi 4 nhóm cơ chế nói trên được thông qua và tổ chức thực hiện tốt thì các cơ chế đặc thù trên sẽ tạo xung lực mới với sự phát triển của thành phố Cảng, tạo niềm tin và động lực mới, phát huy tiềm năng của cán bộ, nhân dân thành phố tham gia vào chính quá trình phát triển. Đó là một quyết định phù hợp trong bối cảnh hiện nay, nhằm tập trung cho những chính sách nền tảng trước mắt, trong khi 3-5 năm là quỹ thời gian không đủ dài để chuẩn bị chu đáo cho Khu thương mại tự do. Do đó, tôi cho rằng việc lựa chọn 4 nhóm cơ chế, chính sách thí điểm cho Hải Phòng như dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội là hợp lý hơn cả, có tính khả thi, tránh “dàn hàng ngang”. Khi làm tốt các cơ chế đặc thù này sẽ cung cấp tiền đề để tiếp tục tính đến việc thành lập Khu thương mại tự do Hải Phòng trong tương lai.

 

Trên cơ sở phân cấp chỉ qua “một cấp” từ Trung ương xuống thành phố, Hải Phòng cần tiếp tục cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả nghị quyết của Quốc hội trên địa bàn. Đồng thời, cần học hỏi các bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện cơ chế đặc thù của một số địa phương trước đó, kể cả bài học thành công và chưa thành công. Nghị quyết khi ban hành phải được triển khai nghiêm túc, có cơ chế giám sát thực hiện. Về phía thành phố Hải Phòng, cần có các giải pháp hỗ trợ, trong đó tiếp tục ưu tiên đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực chất lượng cao với các phẩm chất, năng lực, kỹ năng cũng phải khác hiện nay. Bên cạnh đó, cũng cần chú ý đến đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thông qua đầu tư hiệu quả cho khoa học - công nghệ, trong đó có khoa học-công nghệ biển. Thành phố phải xác định đây là khâu đột phá, là thước đo tiêu chí phát triển. Theo đó, chú ý kế thừa lợi thế của “thành phố biển” với các trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học về biển, hải sản và hàng hải... Thành phố có thể xem xét khả năng thành lập “Trung tâm Đổi mới sáng tạo” mang tầm quốc tế để thu hút công nghệ và các nhà khoa học có trình độ và kinh nghiệm hỗ trợ thành phố phát triển./.