Ba trăm ngày đấu tranh sôi sục, quyết liệt giải phóng hoàn toàn thành phố (Kỳ 3)
(HPĐT)- Phong trào vận động binh lính địch ở Hải Phòng - Kiến An nhanh chóng phát triển lên tới đỉnh cao. Quần chúng sáng tạo nhiều hình thức đấu tranh phong phú làm sụp đổ, tan rã tinh thần binh lính địch. Nhân dân thường kéo đến vị trí tập kết quân của địch hỏi tin tức, kêu khóc, đòi chồng, đòi con. Có cuộc ta huy động tới 3 ngàn quần chúng đấu tranh kiên trì hằng tuần, hằng tháng để làm tan rã từng đại đội, tiểu đoàn địch. Nhân dân và gia đình có người đi lính mang theo cơm, gạo đến nằm lỳ chung quanh doanh trại địch hết ngày này qua ngày khác, đòi kỳ được chồng, con trở về mới chịu giải tán. Do công tác tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ, được quần chúng nhân dân tham gia hăng hái nhiệt tình và do khẩu hiệu phù hợp với quyền lợi, nguyện vọng hòa bình của binh lính và gia đình họ, cùng với chính sách đối xử của ta hết sức nhân đạo, tạo điều kiện cho những người lầm đường có lối thoát về làm người dân lương thiện, nên chỉ một tháng sau khi ngừng bắn, ở các huyện thuộc tỉnh Kiến An đã có 3.581 binh lính và 23 đại đội lính ngụy quay súng về với nhân dân. Ở Hải Phòng và huyện Thủy Nguyên có 5.030 lính cùng tiểu đoàn pháo binh Núi Đèo, một đại đội địa phương rời bỏ hàng ngũ địch. Tổng cộng số lính ngụy đào, rã ngũ trong năm 1954 là 12.733 tên.

Trong thời gian 300 ngày, công tác địch vận của nhân dân Hải Phòng, Kiến An đã làm tan rã hầu hết khối quân ngụy tập kết ở Hải Phòng - Kiến An. Đối với lính Âu Phi, ta tìm cách tuyên truyền làm cho họ nhận rõ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, vận động phong trào phản chiến, không chấp hành mệnh lệnh của bọn chỉ huy, không tham gia những vụ đàn áp, khủng bố quần chúng và đòi hồi hương. Cũng trong thời gian này, ta tổ chức những cuộc trả tự do cho nhiều hàng binh và phóng thích tù binh Âu Phi. Ngày 4-8- 1954, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Kiến An đã trả tự do cho 909 hàng binh. Ngày 2-9-1954, tiếp tục phóng thích 2 tù binh và trả tự do cho 2 hàng binh nữa. Công tác vận động binh lính Âu Phi của ta đã gây tác động mạnh mẽ đến tinh thần binh lính địch, 13 cuộc đấu tranh đòi hỏi hồi hương của lính Âu Phi đã thắng lợi. Tiểu đoàn da đen 22, 120 lính Ma Rốc đóng ở Khinh Giao, 435 lính Âu Phi đóng ở Rế, Đồng Giới và 48 lính thuộc tiểu đoàn 14 ở trại pháo thủ và 120 lính Thái đóng ở nhà máy gạch Quỳnh Cư đấu tranh quyết liệt, buộc bọn chỉ huy phải cho hồi hương trước thời hạn. Thắng lợi của công tác địch vận đã đánh thẳng vào tinh thần quân đội địch, góp phần làm cho khối ngụy quân của giặc Pháp trên miền Bắc tan rã, lôi kéo được một lực lượng lớn về với nhân dân, kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh buộc địch phải thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Một trong những âm mưu xấu xa, tàn bạo của đế quốc Mỹ và bọn thực dân Pháp là dùng mọi thủ đoạn lừa bịp và cưỡng bức đồng bào công giáo di cư vào Nam. Chúng đã gây ra bao thảm cảnh chia ly đầy tủi hơn trong đồng bào ta. Để thực hiện âm mưu lâu dài của chúng nhằm xé bỏ Hiệp định Giơ-ne-vơ, chia cắt lâu dài đất nước ta, chúng lợi dụng việc lôi kéo, cưỡng bức giáo dân vào Nam để tuyên truyền nói xấu miền Bắc và từ trong số đồng bào di cư, chúng khai thác nguồn thanh niên để bắt lính sau này. Chúng đưa lực lượng quân sự đi hộ tống cho bọn phản động đội lốt cha cố, tu sĩ về các nhà thờ tuyên truyền xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ ta. Chúng nói: “Cộng sản phá đạo”, “Chúa đã vào Nam mang hết linh hồn con chiên vào Nam”, “Đi Nam không phải là theo Pháp” và “khi Pháp rút hết Mỹ sẽ bỏ bom nguyên tử”… Chúng còn cho bọn tay chân dùng các thủ thuật ma quỷ hiện hình và đêm đêm đến từng nhà hỏi “bao giờ thì đi”, đe dọa nếu không đi chúng “sẽ giết”, “sẽ phá nhà”. Những luận điệu lừa bịp và thủ đoạn khủng bố của chúng đã làm cho đồng bào ta hoang mang, lo sợ. Hàng vạn đồng bào ta ở khắp các tỉnh trên miền Bắc phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn, họ hàng, làng mạc tập trung về Hải Phòng đón tàu đi Nam. Đồng bào các tỉnh bị dồn về Hải Phòng sống chen chúc, đói khổ trong các lều viện trợ Mỹ ở các bãi cỏ sông Lấp và khu vực Thượng Lý. Bọn nhà thầu với danh nghĩa “Bắc Việt vụ”, “Đấng bề trên”, “Ủy ban di cư Bắc Việt” như một bầy sói bọ bâu vào kiếm ăn chung quanh các quỹ viện trợ Hoa Kỳ gồm toàn gạo mục Sài Gòn và cá khô thối. Thời gian này, Mỹ huy động nhiều phương tiện vận tải quân sự để chở đồng bào từ các nơi về Hải Phòng. Trong gần một năm, hai chiếc tàu APA Mơ-na và Giê-nê-ran đã chở 500 ngàn giáo dân và các tàu chiến Pháp chở 214 nghìn giáo dân từ Hải Phòng đi Nam.
Phân tích cụ thể âm mưu địch, hội nghị Ban Thường vụ Khu ủy Tả Ngạn ngày 18-8-1954 đã đề ra chủ trương: “Tích cực giải thích vận động giáo dân ở lại nhà, không để giáo dân đi Nam, phá âm mưu lợi dụng người Việt đánh người Việt hòng gây lại chiến tranh, phá hoại việc thực hiện Hiệp định của đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm”. Phương châm công tác: “Tuyên truyền dân vận giải thích là chính. Lãnh đạo đấu tranh cô lập, vạch mặt tay chân địch”. Khẩu hiệu vận động: “Bám sát đồng ruộng quê hương, an tâm giữ đạo”. Thi hành chủ trương của Ban Thường vụ Khu ủy, Đảng bộ Hải Phòng và Kiến An đã huy động lực lượng vũ trang và cán bộ các đoàn thể phân tán về các làng công giáo để tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào nhận rõ âm mưu địch, vạch trần thủ đoạn của chúng. Tiểu 204 Kiến An phân tán về các thôn An Quý, Vạn Hoạch, Cổ Am, Nam Am, Hội Am; Đại đội 112 phân tán về các thôn Áng Ngoại, Cốc Rom, Xuân Cốc (huyện Vĩnh Bảo). Đại đội 196 phân tán về các thôn Đông Côn, Đông Xuyên, Xuân Quang, Thúy Nẻo (huyện Tiên Lãng). Các đơn vị bộ đội huyện Kiến Thụy, An Lão, An Dương, Thủy Nguyên phân tán luồn sâu vào các thôn công giáo trong vùng tạm bị địch chiếm chung quanh Hải Phòng, Kiến An.
Bị bọn cha cố phản động mê hoặc, lừa bịp, khi thấy cán bộ, bộ đội về làng, các gia đình giáo dân, kể cả một số gia đình là cơ sở trong kháng chiến cũ, đã bỏ nhà cửa. Vợ chồng con cái bồng bế nhau kéo đến nhà thờ ở tập trung, chôn giấu hết nồi niêu, bát đĩa không để cho bộ đội dùng. Nhiều gia đình còn đổ nước vào rơm, củi để bộ đội không có thứ đun nấu. Khi bộ đội ta làm công tác tuyên truyền giáo dục, bà con không nghe, nhiều người bị phần tử xấu xúi giục gây xung đột, đánh đập bộ đội, cán bộ. Nhiều đồng chí bị thương nặng, có đồng chí bị chém sả vai.
(Còn nữa)
Trích “Hải Phòng, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược” (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - 1986).