"Lá đỏ"- lời hẹn ước của tình yêu và niềm tin tất thắng

11:04 SA 12/08/2017

Mùa thu năm 1974, Nguyễn Đình Thi cùng các nhà thơ Tế Hanh, Phạm Tiến Duật, nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định theo đường mòn Hồ Chí Minh vào chiến trường Nam Bộ. Tại đây, ông chứng kiến hiện thực của cuộc chiến tranh khốc liệt “giữa nghìn tiếng nổ rung đêm lửa”. Sự hy sinh mất mát, đớn đau mà con người phải trải qua ở nhiều góc độ, khía cạnh, tầng bậc khác nhau… Nhưng cũng chính từ những tổn thất, đau thương, mất mát ấy lại hiện lên vẻ đẹp diệu kỳ, lãng mạn của bức tranh thiên nhiên Trường Sơn đại ngàn giữa mùa trút lá. Lấy hiện thực làm điểm tựa của cảm xúc, những trải nghiệm có thật tạo nên sự rung động thẩm mỹ trong tâm hồn bay bổng của Nguyễn Đình Thi. Bất ngờ, xúc động, tác giả nhặt một chiếc lá đỏ ép vào cuốn sổ ghi chép. Và chính khoảnh khắc đó, bài thơ “Lá đỏ” ra đời, và trở thành khúc ca ra trận dọc theo chiều dài đất nước.

(Ảnh: phunuvietnam.vn)

Lá đỏ

Gặp em trên cao lộng gió

Rừng lạ ào ào lá đỏ

Em đứng bên đường, như quê hương

Vai áo bạc quàng súng trường

Đoàn quân vẫn đi vội vã

Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa

Chào em, em gái tiền phương

Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn

(Trường Sơn, 12-1974)

Cụm từ “Trên cao” trong câu thơ đầu của bài thơ này không chỉ nói về vị thế địa lý (dốc cao, đèo cao) mà còn hàm ý vị thế trong tư tưởng, trong tình cảm. “Cao” ở đây còn là cao quý, cao cả. Song, câu tiếp theo, “Rừng lạ ào ào lá đỏ”. Từ “lạ” trong câu thơ gây ấn tượng đặc biệt. Lạ là vì mới gặp, lần đầu thấy sắc đỏ rực trong mùa thu nam Tây Nguyên chăng? “Lạ” miêu tả cảm giác đúng, chân thật”. “Lạ” vì giữa nơi chiến trường dữ dội như vậy lại xuất hiện những người em gái trẻ trung, mảnh mai nhưng rất đỗi kiên cường khi phải ngày đêm đối mặt với hiểm nguy dẫn đường cho xe băng qua những quãng đường khó. Cảm giác lạ đó bỗng biến mất khi nhà thơ nhận ra hình của nhân vật “em” thật gần gũi, thân thương bởi đó là “em” của quê hương, của nơi chốn ta quay về! Thêm nữa, hai từ “lộng gió” như lòng người rộng mở, niềm tin phơi phới chào đón những luồng gió cách mạng.

Trong không khí của cuộc cách mạng sục sôi và dưới ánh sáng của lý tưởng mới, hơn bao giờ hết, hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp mới - vẻ đẹp của những con người giải phóng. Đó là những cô thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường Sơn: “Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường”. Hình ảnh“vai áo bạc” gợi bao tháng ngày mưa dầm nắng lửa ở núi rừng. Thế mà những người con gái mảnh mai ấy vẫn vượt qua tất cả để có mặt chính tại đây, trong tư thế hiên ngang- với cây súng trên vai.

Mặc dầu nơi núi rừng, với mây mù giăng phủ, với gió lộng bạt ngàn, với buổi chiều lá đỏ, đâu đó ánh lửa của đạn bom và sáng rực trên nền trời, máu, nước mắt, hy sinh nhưng tất cả vì miền Nam ruột thịt, họ vẫn kiên trì, anh dũng bám trụ từng tấc đất "...Đoàn quân vẫn đi vội vã/ Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”.

Hai câu cuối: “Chào em, em gái tiền phương/Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn!” cho thấy cuộc gặp gỡ bất chợt thoáng qua với không khí khẩn trương, nhanh vội nhưng không kém phần xúc động mãnh liệt, rồi để lại cho nhau lời hẹn quyết tâm chiến thắng. Tinh thần anh dũng bất khuất của những người con trai, con gái dọc Trường Sơn năm ấy góp phần làm nên chiến thắng 30-4-1975, lá cờ cách mạng được cắm trên nóc dinh Độc lập. Đây là thời điểm đánh dấu thành phố Sài Gòn- Gia Định hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.

Bài thơ “Lá đỏ” được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc sau đó không lâu, trong những tháng ngày hừng hực khí thế chiến đấu của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 lịch sử. “Lá đỏ” -bài ca hào hùng đầy tin tưởng và hy vọng ghi sâu vào trái tim mọi người. Năm 2016, lấy cảm hứng từ ca khúc “Lá đỏ” (nhạc Hoàng Hiệp, thơ Nguyễn Đình Thi) và dựa trên những hiểu biết, cảm xúc của mình về sự hy sinh dũng cảm của 8 thanh niên xung phong trong cuộc chiến tranh vệ quốc, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát cũng hoàn thành kịch bản thơ “Lá đỏ” như nén hương tri ân những anh hùng hy sinh máu xương vì độc lập dân tộc.

Nguyễn Văn Thanh